HỒI KÝ CHÍ BỬU | Đồng Tân

Dinh Cậu Phú Quốc
NĂM 1947 | SỨ MẠNG PHÒ LOAN | 3 LẦN THẤY THIÊN NHÃN
NĂM 1949 | PHIÊN TÒA BỒNG SƠN
NĂM 1950 | VƯỢT THOÁT VÀO SÀI THÀNH
NĂM 1951 | BƯỚC ĐẦU GIAN NAN NƠI ĐẤT LẠ
NĂM 1953 | TẬP THƠ NỖI LÒNG CHINH PHỤ
NĂM 1955 | TÉMOINS DU CHRIST MỜI HỢP TÁC
NĂM 1956 | LÝ THUYẾT TỔNG HỢP RA ĐỜI
NĂM 1957 | BẮT ĐẦU SOẠN THẢO LỊCH SỬ CAO ĐÀI GIÁO QUYỂN I PHẦN VÔ VI
NĂM 1958 | TÌM HIỂU CUỘC ĐỜI ĐỨC NGÔ MINH CHIÊU
NĂM 1959 | NỀN TẢNG CỦA LỊCH SỬ CAO ĐÀI GIÁO QUYỂN II PHẦN PHỔ ĐỘ
NĂM 1960 | TÌM SỬ LIỆU TẠI TÂY NINH
NĂM 1961 | TỔNG ĐỘNG VIÊN KHÓA 13 THỦ ĐỨC
NĂM 1962 | TỐT NGHIỆP SĨ QUAN VÔ TUYẾN ĐIỆN – TRUYỀN TIN
NĂM 1963 | LÀM VIỆC TẠI BỘ CHỈ HUY VIỄN THÔNG
NĂM 1964 | TÁI BẢN NGUYỆT SAN NHÂN SINH | VỀ BỘ TƯ LỆNH LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT
NĂM 1965 | SĨ QUAN THANH TRA MẬT MÃ
NĂM 1968 | THÀNH LẬP HỘI VĂN HÓA CAO ĐÀI
NĂM 1969 | TÌM TRỤ SỞ CHO HỘI VĂN HÓA CAO ĐÀI
NĂM 1970 | GẶP GỠ GIÁO SƯ JEREMY DAVIDSON VÀ MỤC SƯ TIN LÀNH VICTOR OLIVER
NĂM 1971 | HỘI VĂN HÓA CAO ĐÀI GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CỦA GIỚI TRÍ THỨC QUỐC TẾ
NĂM 1973 | CUỐN SÁCH BẢN THỂ LUẬN RA ĐỜI
NĂM 1975 | ĐI ‘KINH TẾ MỚI’ TẠI LÁNG DÀI
NĂM 1976 | VIẾT QUYỂN ‘VĂN HÓA SỬ CAO ĐÀI’
NĂM 1978 | TỰ CHỮA BỆNH SỐT RÉT
NĂM 1979 | LỜI NGUYỆN NĂM CANH THÂN
NĂM 1980 | SOẠN THẢO TỔNG QUAN CAO ĐÀI GIÁO
NĂM 1981 | VƯỢT BIÊN THÀNH CÔNG
NĂM 1983 | CHỮA BỆNH CHO CỤ BẢO ĐẠO
NĂM 1984 | “…ẢNH HƯỞNG CỦA TRẦN THÁI CHÂN?”
NĂM 1985 | THÁNH THẤT TRUNG THÀNH
NĂM 1987 | LỜI NGUYỆN NĂM ĐINH MÃO
NĂM 1988 | HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO CỦA NHỮNG ĐỨA CON TINH THẦN
NĂM 1989 | BÁN CĂN NHÀ ĐẦY KỶ NIỆM
NĂM 1990 | VĨNH BIỆT HIỀN NỘI HỒNG LIÊN
NĂM 1991 | BÀI THƠ TIỄN BIỆT HỒNG LIÊN
NĂM 1994 | NAM THÀNH THÁNH THẤT
Đài Tưởng Niệm Thiên Nhãn

Bia Đá Ghi Nhớ tại Phú Quốc
Một đài tưởng niệm nơi đức Ngô Minh Chiêu thấy Thiên Nhãn tại nền dinh quận cũ Phú Quốc đã được Hội Văn Hóa Cao Đài do chủ tịch Đồng Tân với kiến trúc sư Huỳnh Minh Hải, hội viên Hội Văn Hóa Cao Đài, vẽ họa đồ cùng với tài vậ̣t lực của bà Trần thị Chi thuộc đàn Long Hoa, dựng nên vào năm 1971 với giấy phép của quận trưởng đại úy Phạm hữu hoàng Sơn dưới thời cộng hòa miền Nam. Nơi bức tường lộ thiên có kích thước dài 4m, cao 3m, dày 3 tấc, trên một lô đất trống nằm cạnh nền dinh quận cũ (nay bỏ trống) có cổng từ đường Huỳnh hữu Nghĩa vào và hàng rào bao bọc với các hành lang che khuất trên nền đất cao khoảng 3x3m. Đài có gắn tấm cẩm thạch khổ 90x120cm được khắc hai bên những dòng chữ, bên Việt ngữ do Đồng Tân soạn, bên Anh ngữ do Giáo sư Tiến sĩ đại học Luân Đôn Jeremy Davidon, nhân chuyến hành hương năm 1968, dịch như sau: “Nơi đây vào năm 1921, Đức Cao Đài đã hai lần xuất hiện bằng huyền diệu Thiên Nhãn trước mắt đức Ngô Minh Chiêu, đương kim Chủ quận Phú Quốc để làm biể̀u hiện cho nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ – At this place in the year 1921, Đức Cao Đài appeared twice in the form of the mysterious Heavenly Eye before đức Ngô Minh Chiêu, Prefect of Phu Quoc in order to act as the symbol for the foundation of The Third Amnesty of God”.
Tiếc thay đến năm 1980 do lệnh của chính quyền trung ương, đài tưởng niệm này đã bị đập phá và trở thành hoang phế. Bia đá tuy bị đục bỏ nhưng vẫn còn lưu lại được.


Người đồng tử đầu tiên trong Cao Đài Giáo

Đồng tử Lê Ngưng
Ông Ðồng Ngưng là một đồng tử khi mới bắt đầu phôi thai nền Cao Ðài giáo từ 1921 tại Phú Quốc. Ấy thế, mà đối với các vị đạo trưởng cao niên, khi được hỏi đến thì chỉ biết mập mờ không rõ rệt chi cả, thậm chí có người nói ông không ăn chay, lại không biết chữ v.v…, theo dòng thời gian, vai trò của ông Đồng Ngưng đã ít nhiều phai nhạt theo năm tháng, để rồi người tín đồ Cao Đài ngày nay đã không biết đến, hay có chăng, cũng rất sơ sài, hời hợt.
Đồng Tân rất ngạc nhiên trước những luận cứ ấy và sau khi dò hỏi các đạo hữu Vô Vi, từ Ðàn Long Hoa đến Ðàn Chợ Lớn, cuối cùng cũng tìm gặp được bà Phạm Minh Trung (lúc bấy giờ đã 74 tuổi), là người bạn đã từng cùng sinh kế với ông đồng Ngưng buổi sinh tiền.
Ông sinh năm 1913 tại Nha Trang, miền Trung Việt Nam, thường gọi là Đồng Ngưng khi còn bé đã được dẫn đến đảo Phú Quốc. Cậu bé là người đồng tử đầu tiên của Cao Ðài giáo qua sự điều động của đức Ngô Minh Chiêu từ đầu thập niên 1920 cho mãi đến sau này. Không rõ về lai lịch về thân sinh của ông, chỉ được biết ông có bà mẹ tu Minh Sư, khá giàu có đã vào Sài Gòn cất một ngôi chùa Minh Sư tại vùng Bà Chiểu (Cầu Bông). Tánh nết hiền lành từ nhỏ, ông đã đến Phú Quốc khi tuổi còn thơ ấu có lẽ trong một chuyến du ngoạn bằng đường biển và ở lại đó cùng một số trẻ nít ngang lứa. Khi đức Ngô làm Chủ quận Phú Quốc và bắt đầu ngộ đạo vào cuối 1920 qua những lần cầu tiên tại Quan Âm Tự (Minh Ðường), thì ngài đã có ý tìm cho mình một đồng tử, và Ðồng Ngưng chính là nhân vật được chọn trong số trẻ nít lúc ấy mới 8 tuổi. Thế là cậu bé được tuyển chọn làm đồng tử cho ngài từ đó và ngài cũng đã cho đồng Ngưng theo học các lớp tiểu học tại đây…
Những buổi đàn cơ tại Phú Quốc từ cuối 1920 đều do đồng Ngưng thủ cơ và việc dạy đạo của Ðức Cao Ðài từng chi tiết như từ việc dạy ngài ăn chay, cho thấy Thiên Nhãn để thờ, chứng giám lời nguyền của ngài khi bắt đầu trường trai thọ đạo từ ngày Tết Tân Dậu (tháng 2 – 1921) cũng do đồng Ngưng chấp cơ. Ông có học và biết chữ quốc ngữ cùng một ít tiếng Pháp, ăn chay trường từ đó, nhưng phải cái bệnh ham vui đổ bác… Năm 1924, đức Ngô đổi về Sài Gòn, ông không theo được nên chỉ gặp lại ngài vào năm sau và được ngài thu nhận trong nhà, giao việc tiền bạc và lo việc bếp núc. Mỗi khi cần ngồi đồng thì cho ngủ một giấc để tỉnh tâm. Sau khi đức Ngô liễu đạo tại Cần Thơ, ông trở lên Sài Gòn náu nương nơi các hàng môn đệ của ngài, làm đủ việc để tự nuôi thân và mất tại nhà một bổn đạo tại Gia Ðịnh vì bệnh năm 1956. Buổi sinh tiền, có nhiều môn đệ đức Ngô muốn nhờ ngài ban tâm pháp Vô Vi cho ông khi còn ở Sài Gòn, thì đức Ngô đang ăn miếng bánh, vội bẻ phân nữa trao cho đồng Ngưng và bảo: “Con ăn cái bánh này rồi sau qua độ linh hồn cho, chứ con chưa tu được đâu!”
Ông Ngưng là người hay giễu cợt và rất hòa hoãn. Tại Sài Gòn, có lần hai ông Truyện và Lệ giận nhau, ông liền chạy đến nhà ông Truyện nói ông Lệ đã liễu rồi. Tức thì, ông Truyện lo mua đồ phúng điếu, cho xe chạy đến nhà ông Lệ, mới hay không có gì xảy ra và ông Lệ đang công phu. Ông Truyện ngạc nhiên thì ông Ngưng cười nói: “Ai bảo hai anh tu mà cứ giận nhau hoài làm chi!”. Thế là hai bên cùng cười giảng hòa.
Nåm 1948, khi ngôi Ðàn Trước Tiết Tàng Thơ, tại Thủ Thiêm đang hoạt động, tuy không còn như trước do nạn chiến tranh Pháp Việt, ông Ðồng Ngưng được mời về đó, ngồi đồng như trước. Lúc bấy giờ, bà Phạm Minh Trung đem cụ thân sinh là Phạm Thêm về dưỡng bịnh (ông này thọ pháp với ông Ðại Giác – Ðàn Chợ Lớn, sau liễu đạo đắc quả là Chánh Giác Chơn Nhơn). Bà Trung gặp ông Ngưng tại đó vào năm 1948, hai người kết bạn với nhau và cùng lo chăm sóc ông cụ. Họ chỉ trợ duyên cho nhau vì bà Trung đã theo pháp tu Vô Vi với bà Trần thị Ngữ trước đó tại Ðàn Chợ Lớn. Hai người cùng chăm việc buôn bán, ông lo việc nhà còn bà đi bán độ nhật,… Có lần bà Trung rủ ông Ngưng tu thì ông nhắc lại việc đức Ngô nói ông không tu được và bảo bà đừng nhắc nữa.
Kể ra thì sự nghiệp đồng tử của ông Ngưng được thực thi hầu hết nơi các Ðàn Vô Vi, như ở Trước Tiết Tàng Thơ, Tổ đình Cần Thơ thường có sự hiện diện của ông. Cho đến ngày đức Ngô liễu đạo 13 tháng 3 Nhâm Thân thì bài cơ cuối cùng cũng do ông Ngưng ngồi đồng.
Những ngày cuối cùng, sau khi Trước Tiết Tàng Thơ bị cháy vì Pháp đốt năm 1945, ông về ngụ tại nhà các ông Hai Thông và Ba Minh ở Ðakao, lo việc mua đồ cũ, phụ lái xe đi Ðà Lạt với ông Ðốc Lệ. Lần chót đi Ðà Lạt về, ông ngã bịnh, bảo bà Trung đi mua nãi chuối, ông ăn gần hết. Ông lại bảo bà Trung đến Lăng Ông xin xăm, nếu bổn mạng còn thì đi nữa, còn không thì sẽ về Phú Hữu (quê bà Trung). Nhưng nói vậy mà không thực hiện được, đến 6 giờ sáng hôm sau thì ông mất tại nhà ông Thông năm 1956. Bà Trung đã xây ngôi tháp cho ông tại nghîa trang cüa Thánh Thất Bình Hòa (Gia Ðịnh).
Hiện ngôi mộ của ông ở làng Bình Hòa đã được cải táng về Nha Trang vì nghĩa trang bị giải tỏa sau 1975 do các cháu của ông ở Nha Trang đã đến nơi đây đem di cốt ông về xứ.
Nghĩ lại cơ đồ nhà đạo được đến như ngày nay, vậy mà lớp hậu bối mấy kẻ đã biết được cuộc đời hẩm hiu và cô đơn của ông Đồng Ngưng, khi đạo nghiệp của ông không kém những tướng soái tiên phuông khai sơn phá thạch của nhà đạo cũng bao trùm trong lạnh lùng và thờ ơ, để rồi hôm nay, nhiều kẻ hữu danh cũng chưa chắc có được một đạo nghiệp như thế?!!!
NHÂN VẬT CAO ĐÀI GIÁO

Lời nói đầu: LẦN TÁI BẢN I NĂM 2008
Lời thanh minh: LẦN XUẤT BẢN 2006
Chương 5: NGUYỄN NGỌC THƠ | LÂM NGỌC THANH
Chương 7: VƯƠNG QUAN KỲ | ĐOÀN VĂN BẢN
Chương 8: CAO QUỲNH CƯ | CAO HOÀI SANG
Chương 10: NGUYỄN NGỌC TƯƠNG | LÊ BÁ TRANG
Chương 12: CAO TRIỀU PHÁT | NGUYỄN NGỌC NGỢI
Chương 15: PHAN THANH | CAO SĨ TẤN
Chương 18: HUỲNH NGỌC TRÁC | TRẦN NGUYÊN CHẤT | PHAN THIỆN TRÌ
Chương 20: NGUYỄN PHÁT TRƯỚC | NGUYỄN ĐÁN
Chương 22: TRẦN QUANG VINH | TRỊNH MINH THẾ | TRỊNH VĂN MINH
LỊCH SỬ CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ 3

Chương 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Chương 2: SƠ LƯỢC TIẾN TRÌNH CAO ĐÀI GIÁO TẠI VIỆT NAM TỪ 1926 ĐẾN 1937
Chương 4: DIỄN TRÌNH CƠ ĐẠO TẠI HAI MIỀN TRUNG BẮC 1932-1945
Chương 5: ĐẠI ĐẠO THỨ 7 – NHÂM THÂN 1932
Chương 6: ĐẠI ĐẠO THỨ 8 – QUÝ DẬU 1933
Chương 7: ĐẠI ĐẠO THỨ 9-10 | GIÁP TUẤT 1934 – ẤT HỢI 1935
Chương 8: ĐẠI ĐẠO 11 – BÍNH TÝ 1936
Chương 9: ĐẠI ĐẠO 12 – ĐINH SỬU 1937
Chương 10: ĐẠI ĐẠO 13- MẬU DẦN 1938
Chương 11: ĐẠI ĐẠO 14 – KỶ MÃO 1939
Chương 12: ĐẠI ĐẠO 15 – CANH THÌN 1940
Chương 13: ĐẠI ĐẠO 16-18 | TÂN TỴ1941 – QUÝ MÙI 1943
Chương 14: NHỮNG KHÚC QUANH CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1955
Chương 15: ĐẠI ĐẠO 19-20 | GIÁP THÂN 1944 – ẤT DẬU 1945
Chương 16: ĐẠI ĐẠO 21 | BÍNH TUẤT 1946
Chương 17: ĐẠI ĐẠO 22 – ĐINH HỢI 1947
Chương 18: ĐẠI ĐẠO 23 – MẬU TÝ 1948
Chương 19: ĐẠI ĐẠO 24 – KỶ SỬU 1949
Chương 20: ĐẠI ĐẠO 25 – CANH DẦN 1950
Chương 21: ĐẠI ĐẠO 26 – TÂN MÃO 1951
Chương 22: ĐẠI ĐẠO 27 – NHÂM THÌN 1952
Chương 23: ĐẠI ĐẠO 28 – QUÝ TỴ 1953
Chương 24: ĐẠI ĐẠO 29 – GIÁP NGỌ 1954
Chương 25: ĐẠI ĐẠO 30 – ẤT MÙI 1955
Chương 26: KẾT LUẬN CƠ ĐẠO MIỀN TRUNG 1934-1955
Chương 27: CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO RA BẮC KỲ
Chương 28: TỔNG LUẬN CÔNG CUỘC KHAI GIÁO Ở HAI MIỀN TRUNG BẮC VIỆT NAM TỪ 1934-1955
TÌM HIỂU ĐẠO CAO ĐÀI
BẢN THỂ LUẬN
LỊCH SỬ CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ 2
PHẦN PHỔ ĐỘ 1
KHAI GIÁO NAM VIỆT NAM | SỰ THÀNH HÌNH CÁC CHI PHÁI | 1926 – 1937

Chương một: THIÊN CƠ VẬN CHUYỂN
Chương hai: KHỞI ĐẦU SỰ TRUYỀN BÁ TÍN NGƯỠNG CAO ĐÀI
Chương ba: SỰ THÀNH HÌNH CƠ VÔ VI VÀ PHỔ ĐỘ TRONG ĐẠO CAO ĐÀI ĐẦU NĂM 1926
Chương bốn: SỰ HÌNH THÀNH CƠ PHỔ ĐỘ
Chương năm: CƠ PHỔ ĐỘ TỪ NĂM 1927 ĐẾN 1932
Chương sáu: CƠ PHỔ ĐỘ BỊ KHẢO THÍ TỪ NĂM 1933 ĐẾN 1937
Chương bảy: TỔNG LUẬN 12 NĂM KHAI ĐẠO
Chương tám: SỰ THÀNH HÌNH CÁC CHI PHÁI
Chương chín: SỰ VẬN ĐỘNG QUY NHỨT NỀN ĐẠO
Chương mười: CAO ĐÀI GIÁO TRÊN TRƯỜNG QUỐC TẾ
LỊCH SỬ CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ 1
PHẦN VÔ VI
TÂM PHÁP | 1921-1971

Chương một: SỰ XUẤT HIỆN CÁC GIÁO CHỦ CỰU GIÁO
Chương hai: SỰ XUẤT HIỆN ĐỨC NGÔ MINH CHIÊU VỚI CAO ĐÀI GIÁO
Chương ba: CUỘC ĐỜI ÔNG NGÔ VĂN CHIÊU TRƯỚC KHI GẶP ĐẠO
Chương bốn: SỰ NGỘ ĐẠO CỦA QUAN PHỦ NGÔ VĂN CHIÊU
Chương năm: VAI TRÒ CỦA ĐỨC NGÔ MINH CHIÊU TRONG NNHỮNG NĂM ĐẦU KHAI ĐẠO
Chương sáu: SỰ THÀNH LẬP CÁC ĐÀN VÔ VI
Chương bảy: NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC NGÔ MINH CHIÊU
Chương tám: CHƠN TRUYỀN CAO ĐÀI GIÁO THEO ĐỨC NGÔ MINH CHIÊU



